Bước tới nội dung

Cristian Galano

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cristian Galano
Thông tin cá nhân
Ngày sinh 1 tháng 4, 1991 (33 tuổi)
Nơi sinh Foggia, Ý
Chiều cao 1,70 m (5 ft 7 in)
Vị trí Tiền đạo, Tiền vệ công
Thông tin đội
Đội hiện nay
Vicenza
Số áo 19
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
000?–2010 Bari
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2009–2015 Bari 120 (20)
2010–2011Gubbio (cho mượn) 30 (5)
2015– Vicenza 37 (7)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2006 U-16 Ý 2 (0)
2009 U-18 Ý 5 (2)
2008–2010 U-19 Ý 15 (1)
2010 U-20 Ý 2 (0)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 1 tháng 7 năm 2016

Cristian Galano (sinh ngày 1 tháng 4 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá người Ý hiện đang chơi ở vị trí tiền đạo, tiền vệ công cho câu lạc bộ của Serie B Vicenza. Cristian Galano cũng được biết đến là cầu thủ bóng đá đầu tiên trong lịch sử nhận thẻ xanh lá cây[1][2][3], một hình thức tưởng thưởng cho hành động fair-play trên sân cỏ.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Sinh ra tại Foggia, Apulia, Galano khởi nghiệp tại Serie B và đội bóng vùng Apulia Bari. Anh có trận ra mắt đầu tiên tại Serie B vào ngày 23 tháng 5 năm 2009 (vòng đấu cuối thứ hai) khi đội bóng của anh để thua Salernitana 2-3. Anh mặc số áo 15 trong mùa giải đó.[4] Năm 2010 anh tốt nghiệp đội trẻ U-20 và được cho mượn đến Gubbio[5] để thay thế cánh trái của Alessandro Marotta vừa trở về Bari.[6] Anh là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng thứ ba của đội bóng bên cạnh Alfredo Donnarumma (đều 5 bàn), xếp sau Juanito (18 bàn) và Martino Borghese (6 bàn).[7] Anh trở về Bari vào ngày 1 tháng 7 năm 2011 và ký hợp đồng mới kéo dài ba năm.[8] Galano sau đó gia hạn hợp đồng đến ngày 30 tháng 6 năm 2016.[9]

Ngày 31 tháng 8 năm 2015, Galano được Vicenza Calcio ký hợp đồng theo một thỏa thuận tạm thời, với nghĩa vụ ký hợp đồng hoàn toàn với anh.[10][11] Anh mặc áo số 19 trong Serie B mùa 2015-16 mà Andrea Cocco để lại.[12] Ở phút thứ 53 trong trận Vicenza gặp Virtus Entella diễn ra ngày 9 tháng 10 năm 2016, khi Vicenza được hưởng một quả phạt góc, tiền đạo Galano đã tiến đến trọng tài chính và thanh minh không có cầu thủ nào của Virtus Entella chạm vào bóng trước đó.[13] Sau đó, trọng tài Marco Mainardi đã thay đổi quyết định, cho Virtus Entella phát bóng lên, đồng thời "thưởng" cho anh tấm thẻ xanh (được lập ra từ tháng 1/2016 để tưởng thưởng những hành động đẹp trong bóng đá, fair play) đầu tiên trong lịch sử bóng đá.[14]

Sự nghiệp quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Đội U-16

[sửa | sửa mã nguồn]

Anh bắt đầu sự nghiệp quốc tế tại giải đấu U-16 quốc tế tổ chức ở Val-de-Marne.[15] Anh chưa bao giờ khoác áo Azzurrini ở lứa U-17.

Đội U-19

[sửa | sửa mã nguồn]

Anh được đôn lên đội U-19 vào tháng 12 năm 2008. Vì thế hệ sinh năm 1990 không thể tham dự vòng loại giải vô địch bóng đá U-19 2009, do đó đội U-18 mùa giải đó sẽ chỉ bao gồm những cầu thủ chỉ đủ điều kiện tham dự giải năm 2010. Anh nổ súng ngay trong trận ra mắt giúp đội tuyển thắng Romania 3-1.[16][17][18] Anh còn khoác áo trận ra mắt đội U-18 đối đầu U-18 Đan Mạch. Kể từ đó anh chơi hầu hết các trận đấu của cả đội U-18/19 (thế hệ sinh năm 1991), trong đó có chiến thắng trước U-19 Na Uy vào tháng ba và trận hòa 2-2 với U-19 Ukranie vào tháng tư.[19][20] Anh chơi tất cả bốn trận đấu tại Cúp quốc tế U-18 Slovakia,[21] trong đó ghi hai bàn.[22] Mùa 2009-10, anh là thành viên thường xuyên trong đội bóng: chơi trong các trận giao hữu gặp U-19 Đan MạchU-19 Hà Lan, hai trong ba trận thuộc vòng loại. Đội tuyển giành thắng lợi 3-0 trước U-19 Thổ Nhĩ Kỳ,[23] hòa 1-1 với U-19 Đức[24][25] và thắng U-19 Thụy Sĩ 1-0 trong các trận giao hữu.

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ K.Đ (ngày 10 tháng 10 năm 2016). “Cầu thủ Italy nhận THẺ XANH đầu tiên trong lịch sử bóng đá thế giới”. Thể thao & Văn hóa. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2016.
  2. ^ Sam Street (ngày 8 tháng 10 năm 2016). “GOING GREEN Italian second tier match between Virtus Entella and Vicenza sees first ever GREEN CARD given for fair play”. The Sun. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2016.
  3. ^ “Officials for the Italian second tier announced at the beginning of the season that the player shown the most cards for fair play will receive an award”. Goal.com. ngày 9 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2016.
  4. ^ “Sito Ufficiale del Campionato degli Italiani”. Truy cập 12 tháng 10 năm 2016.[liên kết hỏng]
  5. ^ “Testardi e Galano” (bằng tiếng Ý). A.S. Gubbio 1910. 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2015.
  6. ^ “GALANO UFFICIALE” [Galano Official]. AS Gubbio 1910 (bằng tiếng Ý). ngày 5 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2011.[liên kết hỏng]
  7. ^ “Classifica Marcatori - 1° Divisione gir. A”. Lega Pro (bằng tiếng Ý). ca. End of 2010–11 season. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  8. ^ “Mercato, Marotta firma fino al 2015”. A.S. Bari (bằng tiếng Ý). ngày 1 tháng 7 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2011.
  9. ^ Valutazione ramo di azienda sportiva A.S. Bari S.p.A. - fallimento (tiếng Ý)
  10. ^ “Cristian Galano in biancorosso” (bằng tiếng Ý). Vicenza Calcio. ngày 31 tháng 8 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2015.
  11. ^ “Mercato: Galano al Vicenza” (bằng tiếng Ý). F.C. Bari 1908. ngày 31 tháng 8 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2015.
  12. ^ “Verso l'esordio di campionato Modena-Vicenza: i ventuno convocati” (bằng tiếng Ý). Vicenza Calcio. ngày 5 tháng 9 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2015.
  13. ^ Nguyên Trí (ngày 9 tháng 10 năm 2016). “Thẻ xanh đầu tiên của bóng đá thế giới xuất hiện”. Newzing.vn. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2016.
  14. ^ “Cầu thủ Serie B nhận thẻ xanh đầu tiên trong lịch sử”. Vov.vn. ngày 10 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2016.
  15. ^ “COMUNICATO STAMPA” [Press Release] (PDF). FIGC (bằng tiếng Ý). ngày 27 tháng 10 năm 2006. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2010.
  16. ^ “CALCIO, AMICHEVOLE UNDER 19: ITALIA-ROMANIA 3-1”. la Repubblica (bằng tiếng Ý). ngày 17 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2010.
  17. ^ “taccuino”. La Gazzetta dello Sport (bằng tiếng Ý). ngày 18 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2010.
  18. ^ “The Under 19 closes 2008 with a win against Romania”. FIGC. ngày 17 tháng 12 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2011.
  19. ^ “Under 19: l'8 aprile amichevole a Kiev con l'Ucraina”. FIGC (bằng tiếng Ý). ngày 30 tháng 3 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2010.
  20. ^ “Сборная Украины (U-19) упустила победу над итальянцами” [Ukraine Team (U19) missed victory over Italy]. FC Dynameo Kiev (bằng tiếng Nga). ngày 8 tháng 4 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2016. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |archivedate=|archive-date= (trợ giúp)
  21. ^ “Under 18: 18 players called for the "Slovacchia Cup". FIGC. ngày 23 tháng 4 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2010.
  22. ^ "Slovakia Cup": win against Denmark with goal by Galano”. FIGC. ngày 27 tháng 4 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2011.
  23. ^ “ITALY WINS 3-0 AGAINST TURKEY: IN RUSSIA IN MAY FOR EURO”. FIGC. ngày 20 tháng 1 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2010.
  24. ^ “Match report: Italy 1-1 Germany”. DFB (bằng tiếng Đức). ngày 17 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2010.
  25. ^ “Italy and Germany. Piscedda: "The team is growing". FIGC. ngày 17 tháng 3 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2010.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]